Nhà văn Trung Trung Đỉnh:

Đi bộ đội, hành trang của tôi chẳng có gì ngoài sách

10:39 | 28/04/2016
Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành từ sau năm 1975, với ông trong đời chỉ có hai giấc mơ; thứ nhất là mơ về thời thơ ấu; thứ hai là những giấc mơ về chiến tranh, về các trận đánh du kích mà ông từng tham gia. Chả thế mà những tập truyện ngắn, tiểu thuyết đã xuất bản của nhà văn Trung Trung Đỉnh (Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà văn) đều cháy bỏng những ký ức về những câu chuyện một thời máu lửa hào hùng.
tin nhap 20160428102829 “Xuân biên cương - Nâng bước em tới trường”
tin nhap 20160428102829 Người cựu chiến binh làm kinh tế giỏi

-Thưa nhà văn, nói đến Trung Trung Đỉnh, bạn đọc thường nghĩ ngay đến những trang viết đầy ắp hơi thở Tây Nguyên từ thời chống Mỹ đến tận bây giờ. Hẳn ông sẽ có nhiều hoài niệm gắn bó ở thưở đôi mươi ấy?

- Tôi nhớ chứ. Lúc đó tôi mới 18 tuổi, học gần hết phổ thông. Thấy lũ bạn trai trong lớp đa phần đi bộ đội sớm, nên tôi cũng quyết tâm bỏ học, nhập ngũ. Khi đó tôi gầy gò, chỉ nặng 39 kg, lần nào khám sức khỏe cũng bị loại. Lần đấy, tôi nghĩ ra cách bỏ mấy nắm đá dăm vào túi quần hòng “ăn gian” 2 – 3 kg. Thế là, tôi đủ tiêu chuẩn và lên đường hành quân từ Hải Phòng – nơi tôi sinh ra đến núi Yên Tử.

tin nhap 20160428102829
Nhà văn Trung Trung Đỉnh.

Phải mất 3 – 4 tháng tôi mới tới được đơn vị. Sự trải nhiệm đầu đời khiến cho đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ da diết. Yên Tử của những năm 1968 rừng thiêng, nước độc, không có điện, phải sống trong hang động, thiếu thốn đủ thứ. Ngày ấy, đơn vị phát động làm báo tường. Nhờ có khiếu văn chương, nên tôi nhận làm cho đồng đội, đổi lại, họ phải bó củi, giặt đồ cho tôi.

Tôi yêu chữ nghĩa từ nhỏ và có nhiều bài thơ được in trên Báo Thiếu niên Tiền phong. Bởi thế, khi đi bộ đội, hành trang của tôi chả có gì ngoài sách. Mặc dù sách thời đấy rất hiếm, nhưng vì yêu văn học nên tôi vẫn tìm được sách để đọc. Tôi nhớ như in ánh đèn dầu leo lắt trong hang mà ở đó tôi vùi đầu vào những trang sách mỗi khi rảnh. Rồi tôi bắt đầu viết “lăng nhăng” lên những mẩu giấy lượm lặt được.

- Được biết truyện ngắn đầu tay của ông được ra đời dựa trên thực tế từ cuộc tác chiến về một trận đánh?

- Đúng vậy. Truyện ngắn đầu tay của tôi có tên rất Tây Nguyên – “Những khấc coong chung”, viết vào năm 1972. Lúc đó, tôi là lính của Tỉnh đội Gia Lai, đóng quân ở trong rừng An Khê, đánh nhau với Sư đoàn Không vận  số 1 của Mỹ - ngụy. Một lần, bộ đội ta đánh đồn An Khê, địch bỏ chạy, tôi nhặt được cái hộp, tưởng là bom, nhưng khi mở ra mới biết đó là cái máy chữ kèm hai cuộn giấy. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy máy chữ. Tôi mang luôn về hang, kỳ cạch tập đánh máy. Vừa đánh, vừa nghĩ cốt một câu chuyện. Tôi mất gần một tháng để dựng lên một trận đánh trong trí tưởng tượng. Nhưng câu chuyện tưởng tượng ấy được dựa trên thực tế một cuộc họp của Trung đoàn về công tác tác chiến cho một trận đánh mới.

Viết xong, tôi gửi một đồng chí lên quân khu dự họp mang bản thảo ra tòa soạn Văn nghệ Quân giải phóng dự trại viết. Tưởng vu vơ, thế mà truyện ngắn của tôi được trại trưởng mang ra đọc cho toàn trại nghe. Mọi người ai cũng khen hay. Sau đó, truyện được in,  phát trong quân khu. Khi in xong họ nhầm tên tôi, Phạm Trung Đỉnh thành Trung Trung Đỉnh. Bút danh của tôi, vì thế,  cũng có từ đấy.

- Ngày đó, phương tiện truyền thông còn nghèo nàn, ông đón tin về truyện của mình bằng cách nào?

- Đêm hôm đó, nằm võng trong rừng nghe chương trình kể chuyện đêm khuya qua radio. Tôi nghe rõ ràng đài phát thanh giới thiệu tên tác giả Trung Trung Đỉnh và đọc truyện của tôi. Cái cảm giác sung sướng ấy thật khó diễn tả được thành lời. Nó như một giấc mơ không tưởng của chàng lính trẻ như tôi lúc bấy giờ. Ngay sau đó, Tuyên giáo Tỉnh đội cho cán bộ về điều tra xem câu chuyện tôi viết có thật hay không. Nếu chuyện thật thì sẽ đề nghị cấp trên khen thưởng cho đơn vị, còn nếu là chuyện phịa thì tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi sợ quá. Được in truyện ngắn đầu tay chưa kịp mừng đã lo. Nhưng may thay, mọi sự rồi cũng qua.

- Khi đó, cảm xúc của ông như thế nào?

- Thời chiến chỉ có vài tác phẩm văn học của các nhà văn có tiếng. Lâu lâu mới có một tờ báo văn nghệ để đọc. Thế nên, sách đóng vai trò rất quan trọng đối với những người lính chiến trường. Có quyển sách nào là chúng tôi xé nát chia nhau đọc từ chữ a đến chữ z. Có những chiến sĩ sau khi hy sinh, tìm trong ba lô chỉ có vài ba quyển sách hay tập thơ. Thời đó, viết truyện, viết báo làm gì có tiền, được in đã là sung sướng lắm rồi.

- Thời kỳ gian khổ đó, cảm xúc sáng tác sẽ rất khác so với thời bình. Có phải vì thế mà các tác phẩm ngày xưa có giá trị hơn, thưa ông?

-Tôi không nghĩ là như vậy. Ngày xưa hay bây giờ, cũng vậy thôi. Trăm tác giả viết hàng trăm cuốn sách thì mới chọn ra được một vài quyển hay, có giá trị văn học. Theo tôi, các tác giả trẻ bây giờ giỏi hơn thế hệ chúng tôi. Thời của tôi chủ yếu viết bằng cảm xúc, bằng bản năng, còn bây giờ họ được học nhiều hơn, có nhiều kỹ năng hơn.

Tuy nhiên, hiện nay cũng có một lớp tác giả còn tồn tại một căn bệnh chung của tuổi trẻ. Đó là nôn nóng. Họ muốn “đi tắt” mà quên rằng văn học đích thực phải học hành rất gian khổ. Văn học cổ điển là nền tảng cho một người viết chân chính, nhưng nhiều người trẻ vì quá nóng vội đã bỏ qua và bắt tay ngay vào sáng tác, nên viết ra nhưng tác phẩm sống sượng, không hay là như vậy. Nhưng thời nào cũng thế, ngay cả Vũ Trọng Phụng hay Nam Cao, phát sáng nhất, thành công nhất của họ đều xuất phát từ tuổi trẻ.

- Xin cảm ơn nhà văn Trung Trung Đỉnh!

Nguyễn Hoài
(thực hiện)

© 2021 Ghi rõ nguồn "laodongthudo.vn" khi phát hành lại thông tin từ website này